Chi Bỏng Nẻ là một chi thuộc các cây có hoa trong họ Rubiaceae – họ Thiến Thảo. Và Lục Nguyệt Tuyết (Bạch Đinh Hương, Serissa japonica) là loài duy nhất trong chi này. Chúng là cây bản địa của các vùng rừng nhiệt đới vốn có nhiều đồng cỏ ẩm ướt ở Đông Nam Á, từ Ấn Độ, kéo đến Trung Quốc và Nhật Bản. Nó thường được gọi là hoa hồng tuyết, cây ngàn sao hoặc Boxthron Nhật Bản, trước đây còn được gọi là Serissa foetida. “Foetida” đề cập đến mùi rất khó chịu, giống như mùi nôn mửa, sẽ phát ra khi cây bị cắt tỉa hoặc bị dập. Hoa Hồng Tuyết và cây Ngàn Sao thực ra là giống khác nhau. Cách duy nhất để phân loại là so sánh khác biệt về hính dáng và kích thước của những bông hoa.

Đánh giá từ số lượng các cây Junipers bỏ đi và Serissas héo hon, những người mới chơi có lẽ nên bắt đầu bằng các loại Elm và Ficus. Serissa là một cây khét tiếng cầu kỳ. Tin tốt là chúng không quá khó sống. Nhưng thực ra mọi người mua cây Lục Nguyệt Tuyết này vì không cưỡng lại vẻ đẹp của nó khi nhìn thấy ở cửa hàng, và đây là tin xấu. Cây sẽ rụng hoa trong 1 đến 2 ngày. Sau đó cây sẽ rụng cả lá. Nếu người trồng cây không hoảng sợ (thực tế rất nhiều người chơi Lục Nguyệt Tuyết đã vô tình giết chết cây bằng cách quyết liệt tăng hoặc giảm lượng nước tưới), cây sẽ rất nhanh mọc lại lá. Một cuộc đấu tranh quyền lực sẽ xảy ra. Người chơi rất dễ nhận ra cây Lục Nguyệt Tuyết thường có xu hướng rụng lá khi bị đột ngột tăng giảm lượng nước tưới, quá nóng hoặc quá lạnh, hoặc có sự thay đổi đột ngột về ánh sáng hoặc nhiệt độ.

Mô tả

Đây là một loại cây bụi thường xanh hoặc bán thường xanh, kích thước cao tối đa 45 – 60cm, có lá hình bầu dục, màu xanh đậm, khá dày và toả ra mùi khá khó chịu nếu bị dập (do đó nó có tên cũ là foetida). Các nhánh cây mọc thẳng theo mọi hướng và tạo thành một tán lá rộng rậm rạp. Chúng được trồng vì mọc gọn gàng, độ che phủ tốt và thời gian ra hoa dài. Nó có giá trị cây thân gỗ, thân cây màu xám và có xu hướng nhạt màu theo tuổi.

Lá và hoa cây Lục Nguyệt Tuyết
Lá và hoa cây Lục Nguyệt Tuyết

Lục Nguyệt Tuyết thực tế có thể ra hoa quanh năm, nhưng sẽ nhiều đặc biệt vào mùa xuân cho đến mùa thu. Những bông hoa có 4 đến 6 thuỳ, có hình phễu và rộng tầm 1cm. Chúng xuất hiện đầu tiên dưới dạng nụ hồng nhưng chuyển sang màu trắng khi nở hoa. Muốn giữ thời gian ra hoa lâu dài hãy chú ý đến việc bón phân.

Ánh sáng

Ánh sáng mặt trời là một quan trọng với cây Lục Nguyệt Tuyết. Nếu để cây trong nhà thì cần có ánh sáng tầm 1000 Lux. Bật đèn tầm 12 giờ hàng ngày là tốt nhất. Quá ít ánh sáng dễ dẫn đến việc cây phát triển thân và rễ.

Nhiệt độ

Đạt đến độ 9. Một số người trồng đã thử đem chúng vào môi trường xuống 50 độ F (10 độ C). Nhiệt độ lý tưởng của cây là từ 10 – 25 độ C, nhưng thực tế ở Việt Nam thì nhiều người chơi đã chơi thành công ở nhiệt độ 25 – 35 độ C. Quan trọng hơn nhiệt độ thì cây bị ảnh hưởng mạnh bởi hai yếu tố: Cây không thích sự thay đổi ánh sáng đột ngột (nhiều cây bị chết do để trong nhà không đủ ánh sáng) và nhiều cây đơn lẻ có thể thể hiện độ cứng cáp khác nhau (Một cây Lục Nguyệt Tuyết trồng ngoài trời từ lúc còn nhỏ sẽ chịu được sự thay đổi nhiệt độ so với các cây Serissa được trồng trong nhà kính). Nếu để cây ở trong nhà, tránh đặt cây ở gần nguồn nhiệt, tránh xa khu vực nóng và bếp, nếu không cây dễ bị rụng lá. Nếu để cây ngoài trời quanh năm thì khi nhiệt độ lạnh hơn thì cây cũng sẽ rụng lá (nhưng không chết đâu, các bạn đừng lo nhé ^^)

Là một loài cây cận nhiệt đới, Lục Nguyệt Tuyết phải được đảm bảo trồng ở nhiệt độ > 7 độ C, điều đó có nghĩa mùa đông hoặc ở các nước châu Âu, châu Mỹ thì các cây phải được canh tác trong nhà. Tuy nhiên khi thời tiết lạnh thì vấn đề độ ẩm trở nên khó kiểm soát hơn, cây thường sẽ chịu ảnh hưởng nếu như không được cung cấp độ ẩm cần thiết.

Nên đặt cây ở vị trí tránh gió mạnh.

Tưới nước

Giữ ẩm đều. Cây thường cần rất nhiều nước trong thời tiết ấm áp, đễn nỗi một số người chơi khuyên bạn nên đặt Lục Nguyệt Tuyết vào một khay nước (Cái này phải kiểm tra nếu không sẽ thối rễ đó nhé). Những người khác thì cảnh báo chống lại điều này, vì đúng là nó có thể gây thối rễ. Serissa không phải là cây thuỷ sinh hoặc bán cạn tự nhiên giống các loại Bald Cypress, vì vậy không cần có một khay nước nếu bạn duy trì độ ấm và tưới nước đều cho cây. Lục Nguyệt Tuyết nếu thiếu nước sẽ rụng lá. Nếu điều này xảy ra, chỉ cần chăm tưới nước trở lại nhưng chú ý đừng nhiều quá kẻo thối rễ. Một số người chơi khuyên nên phun sương khi thời tiết khô. Cũng có người khuyên nên phun sương hàng ngày, nhưng đừng phun sương khi hoa đang nở vì dễ làm thối hoa. Đặt cụm cây lên một khay ẩm là một lựa chọn khả thi nữa.

Cây Serissa thích đất trung tính pH = 7, có thể hơi axit, vì vậy tránh nước vôi. Khi không có hoa trên cây, nên phun tán lá bằng nước không có vôi.

Đất & dinh dưỡng

Cứ đến 10 đến 14 ngày trong quá trình tăng trưởng, hoặc từ 4 – 6 tuần trong mùa đông, sử dụng các loại phân bón bonsai dạng lỏng hoặc một số loại phân bón tăng cường. Cây thích điều kiện đất hơi axit, vì vậy có thể sử dụng Miracid.

Cắt tỉa và đâm rễ

Khi cây nở hoa, loại bỏ hoa tàn để kích thích cây ra nhiều hoa hơn. Cắt tỉa là cần thiết, Lục Nguyệt Tuyết sẽ mọc rất nhanh và việc cắt tỉa là cần thiết để duy trì hình dáng củ cây. Chồi sẽ đâm ra từ thân cũ, một số sách cũ khuyên thỉng thoảng có thể tỉa lại cây như ban đầu để duy trì hình dáng. Trong thời kỳ phát triển, Serissa có thể phát triển rễ không khí và thường được sử dụng trong các rễ tiếp xúc hoặc rễ nằm trên đá. Bạn có thể loại bỏ các đầu rễ không mong muốn mọc ra từ gốc. Đây là loại cây phù hợp mọi phong cách, nhưng hiếm khi trong phong cách mọc thẳng đứng hoặc dạng chổi. Cây thích hợp các dáng nhỏ và vừa.

Nhân giống

Cắt gốc khá dễ dàng. Lesniewicz khuyên bạn nên sử dụng cách giâm cành dài tầm 10cm vào một cốc nước trong đầu hè. Samsons khuyến khích tăng nhiệt độ ở gốc để thúc đẩy sự phát triển rễ diễn ra nhanh hơn.

Thay chậu

Nên thay chậu trong khoảng từ 1 – 2 năm vào mùa xuân. Rễ mới cắt tỉa có thể phát ra mùi hơi khét! Cắt tỉa rễ vừa phải và sử dụng các loại đất bonsai cơ bản.

Sâu và bệnh

Ve nhện đỏ, côn trùng cánh vẩy, rệp, nấm mốc. Sâu bệnh thường không gây ra các vấn đề lớn nhiều như việc thay đổi đột ngột các điều kiện ánh sáng, nhiệt độ.

Các biến thể

Có rất nhiều biến thể với hoa kép hoặc đa dạng màu sắc lá. “Hồng Hồng Tuyết” có lá màu hồng nhạt và là có viền trắng. Các giống khác bao gồm: ‘Variegata’, ‘Variegated Pink’, ‘Pink Myst’, ‘Snowdrops’, ‘Snowleaves’, ‘Mt. Fuji ‘,’ Kyoto ‘và’ Sapporo ‘….

  • Serissa crassiramea: Makino serissa – Cây bụi lá rậm, mang hoa trắng 
  • Serissa foetida (also called S. japonica): Lục Nguyệt Tuyết, có thể có hoa đơn hoặc hoa kép, có mùi khó chịu toát ra khi cây bị cắt hoặc bị dập. 
  • Serissa foetida ‘Chinese’ – Có hoa nhỏ màu trắng nhỏ li ti, mọc rời rạc.
  • Serissa foetida ‘Flore Pleno’ – Hoa kép trắng nở quanh năm. Tán lá xanh đậm.
  • Serissa foetida ‘Kyoto’ – Một giống lùn, nhỏ với hoa đơn trắng – hiếm khi mọc cao quá 1m
  • Serissa foetida ‘Kyoto Variegated’ – Biến thể của loại trên
  • Serissa foetida ‘Mt. Fuji’ – Giống cây này có lá lớn hơn và thân dày hơn các loài Lục Nguyệt Tuyết Serissas khác. Nó rất đa dạng, với những bông hoa đơn màu trắng. Sự đa dạng thay đổi trong cả năm, phụ thuộc nhiệt độ, ánh sáng và chất dinh dưỡng.
  • Serissa foetida ‘Pink Mountain’ – Một loại mọc chậm với những tán lá đa dạng vào mùa đông và có hoa đơn màu hồng.
  • Serissa foetida ‘Pink Princess’ – Nụ màu hồng nhạt và nở ra hoa mằn trắng hình ống.
  • Serissa foetida rosea ‘Ahiro Pink’ – Hoa đơn màu hồng, tán lá đa dạng.
  • Serissa foetida rosea ‘Cherry Blossom’ – Hoa đơn màu hồng, tán lá rất đa dạng.
  • Serissa foetida rosea ‘Pink Swan’ – Hoa đơn màu hồng, tán lá rất đa dạng.
  • Serissa foetida rosea ‘Tancho’ – Hoa đơn màu hồng, tán lá rất đa dạng.
  • Serissa foetida ‘Variegata’ – Lá xanh với viền vàng hoặc kem. 
  • Serissa foetida ‘White Swan’ – Hoa đơn trắng, tán lá đa dạng. Sống mạnh mẽ hơn các loại Lục Nguyệt Tuyết phổ thông, đây là giống hình thành thân cây nhanh và trái ngược với các giống phổ thông khi không có tán lá rậm rạp.
  • Serissa foetida ‘Yatsubusa’ – Một giống lùn với tán lá nhỏ màu hồng và xanh đậm.

Bonsai

Lục Nguyệt Tuyết là một trong những cây bonsai được bán phổ biến nhất ở Mỹ và châu Âu. Nó không quá khó để trồng dưới dạng bonsai, nhưng cũng khá cầu kỳ. Nhiều người mới chơi Bonsai sẽ phá huỷ một cây Lục Nguyệt Tuyết trong nỗ lực uốn cây thiếu kinh nghiệm. Cây phản ứng bất lợi bằng cách rụng nhiều khá khi bị tưới nước quá nhiều, nếu nó quá nóng hoặc quá lạnh, hoặc khi được chuyển đến địa điểm mới. Cây thường phát triển khoẻ mạnh trở lại khi được cung cấp điều kiện tốt hơn.

Tên khác

  • Buchozia coprosmoides L’Hér. ex DC.
  • Democritea serissoides DC.
  • Dysoda fasciculata Lour.
  • Dysoda foetida (L.f.) Salisb.
  • Leptodermis nervosa Hutch.
  • Leptodermis venosa Craib
  • Lycium foetidum L.f.
  • Lycium japonicum Thunb.
  • Serissa crassiramea (Maxim.) Nakai
  • Serissa democritea Baill.
  • Serissa foetida (L.f.) Lam.
  • Serissa foetida var. crassiramea Maxim.
  • Serissa foetida f. plena Makino
  • Serissa foetida f. pleniflora Makino
  • Serissa kawakamii Hayata
  • Serissa serissoides (DC.) Druce

Dược liệu

Đặc điểm giải phẫu

Thân gỗ nhỏ, cao 40-50 cm, đường kính 0,1-1,5 cm, phân nhánh rất nhiều. Thân non tiết diện vuông màu xanh nâu, phủ nhiều lông ngắn màu nâu. Thân già tiết diện tròn màu xám nâu, mang những mảnh bần và thụ bì bong ra. Lá đơn, mọc đối. Phiến lá nhỏ hình bầu dục hai đầu nhọn, dài 0,5-2,5 cm rộng 0,2-2,8 cm. Lá màu xanh đậm ở mặt trên, mặt dưới nhạt hơn. Bìa lá nguyên, có nhiều lông ở lá non. Gân lá lông chim nổi rõ ở mặt dưới, 3-5 cặp gân phụ; trên gân lá có lông. Cuống lá ngắn 0,5-1,5 mm, dẹp, màu xanh và có lông. Lá kèm cao 1-2 mm, màu xanh nâu, dạng sợi cứng; thường gặp dạng 3 sợi với sợi giữa dài nhất, đôi khi là 2 sợi không bằng nhau. Cụm hoa là chụm tròn ở ngọn cành, mỗi chụm thường mang 3-8 hoa, không có cuống chung và được bao bởi các lá ở ngọn cành. Hoa nhỏ, đều, lưỡng tính, mẫu 5; cuống hoa rất ngắn. Lá bắc màu xanh nâu, dạng sợi, dài 2-3 mm. Hai lá bắc con màu xanh, cao 2-3 mm, dính nhau một ít ở phía dưới, phía trên rời thành 2 phiến hình tam giác hẹp. Lá bắc và lá bắc con có nhiều lông. Lá đài 5, dính nhau bên dưới thành ống khoảng 1 mm, phía trên thuôn dài 2 mm; bìa có lông trắng. Lá đài màu xanh, ở giữa có 1 gân màu trắng; tiền khai van. Cánh hoa 5, màu trắng; phía dưới dính thành ống hẹp, màu xanh nhạt cao khoảng 2mm, ống này loe dần và có màu trắng, đường kính họng tràng 2-3 mm; 5 thùy hình bầu dục đầu nhọn, dài khoảng 4 mm cong xuống phía dưới khi hoa nở; bên trong ống tràng và mặt trên các thùy phủ rất nhiều lông màu trắng; tiền khai van. Nhị 5, bằng nhau, gắn ở phần loe của ống tràng xen kẽ với các cánh hoa. Chỉ nhị rời, dạng sợi màu trắng, nhẵn, cao khoảng 1-2 mm. Bao phấn màu trắng ngà, hẹp, 2 đầu nhọn, dài khoảng 2 mm; 2 ô, khai dọc, hướng trong, đính giữa. Hạt phấn rời, hình bầu dục hay hình cầu, màu vàng nhạt có 2 rãnh dọc. Lá noãn 2, ở vị trí trước sau đôi khi 2 bên, dính nhau thành bầu dưới, 2 ô, mỗi ô 1 noãn, đính trung trụ; bầu màu xanh nhạt, cao 1-1,5 mm. Vòi nhụy dạng sợi màu trắng, dài 2 mm; 2 núm nhụy màu trắng xanh, dài 1mm, cuộn ra ngoài khi hoa nở.Quả thịt 2 ô, được bao bởi các lá đài tồn tại, 2 hạt.

Đặc điểm giải phẫu

Vi phẫu thân: Tầng bì sinh xuất hiện khá sớm, 1-2 lớp tế bào bần nằm trong vùng mô mềm vỏ gần trụ bì. Thân già có lớp bần khá dày với những tế bào hình chữ nhật hẹp, vách mỏng. Mô mềm vỏ rất ít, tế bào hình bầu dục, không đều, xếp chừa các đạo nhỏ, rải rác trong mô mềm là các sợi vỏ riêng lẻ hay thành cụm nhỏ và các bó tinh thể calci oxalat hình kim màu vàng nâu. Trụ bì hóa sợi thành vòng quanh thân, đôi khi vòng sợi này không liên tục mà bị cắt bởi các tia libe. Libe 1 thành từng đám rõ, libe 2 gồm nhiều lớp tế bào xuyên tâm rõ, có các bó tinh thể calci oxalat hình kim. Gỗ 2 khá nhiều, mạch gỗ có đường kính nhỏ, tia gỗ thường gồm 1-3 dãy tế bào màu xanh nâu, sợi gỗ có vách dày tạo thành từng đám rải rác; gỗ 1 rõ. Mô mềm tủy hóa mô cứng hoàn toàn, trong tế bào có nhiều tinh bột.

Vi phẫu lá

Gân giữa: Biểu bì trên hơi lồi; lông che chở đơn bào, vách dày; cutin răng cưa cạn. Tế bào biểu bì trên to gấp đôi tế bào biểu bì dưới. Mô dày tròn khoảng 2-3 lớp nằm sát lớp biểu bì. Tế bào mô mềm đạo hình bầu dục, khá đều, vách mỏng, có thể gặp tế bào tiết to, màu vàng nhạt. Hệ thống dẫn hình vòng cung, gỗ ở trên và libe ở dưới; phía dưới libe có 2-3 lớp mô dày góc có kích thước nhỏ, xen lẫn vài sợi. Phía trên gỗ đôi khi cũng gặp vài lớp mô dày góc. Biểu bì dưới lồi nhiều.

Phiến lá

Tế bào biểu bì trên hình vuông, rất to; tế bào biểu bì dưới hình chữ nhật nhỏ hơn 5-6 lần, rải rác ở lớp biểu bì dưới ngoài các lỗ khí còn gặp các tế bào hình tròn, to, màu tím. Mô mềm giậu chiếm phân nửa chiều dày thịt lá, gồm 2-3 lớp tế bào; mô mềm khuyết với những tế bào hình bầu dục xếp nằm ngang, chừa các khuyết nhỏ, rải rác trong mô mềm khuyết có các bó tinh thể calci oxalat hình kim.

Vi phẫu rễ

Lớp bần rất dày (8-10 lớp tế bào); tế bào bần hình chữ nhật hẹp, vách mỏng. Tế bào mô mềm vỏ to, hình bầu dục xếp nằm ngang. Libe 1 thành từng đám, libe 2 ít nhưng rất rõ. tinh thể calci oxalat hình kim màu vàng nâu thành những bó dày, khá nhiều trong mô mềm vỏ và libe 2. Gỗ 2 chiếm tâm; mạch gỗ rất nhiều, nhỏ, đường kính bằng hay hơi to hơn mô mềm gỗ; tia gỗ rất rõ với 1-2 lớp tế bào hiếm khi 3; mô mềm gỗ vách khá dày, có chứa tinh bột.

Đặc điểm bột dược liệu

Bột toàn cây có hoa có các thành phần: Lông che chở đơn bào. Sợi dài trung bình 150 µm, vách dày khoảng 8 µm, khoang hẹp 2,5 µm, thường tập trung thành từng bó. Tế bào mô cứng thuôn hẹp. Tế bào biểu bì vách tế bào hơi uốn ượn, lỗ khí kiểu song bào, tế bào bạn hẹp, biểu bì trên có nhiều vân rõ hơn biểu bì dưới. Mảnh mạch xoắn, mạch vạch. Nhiều tinh thể calci oxalat hình kim dài từ 60-80 µm. Hạt phấn hoa tròn hay bầu dục, đường kính khoảng 60 µm. Hạt tinh bột hình đa giác, có khi tròn, đường kính 10-12 µm, tễ không rõ.

Phân bố, sinh học và sinh thái

Loài của Trung Quốc, Nhật Bản. Ta nhập trồng từ lâu làm cây cảnh, cây mọc khoẻ, dễ trồng bằng giâm cành. Thu hái toàn cây quanh năm, dùng tươi hay phơi khô.

Bộ phận dùng

Toàn cây (Herba Serissae japonicae)

Thành phần hóa học

Chưa được nghiên cứu nhiều.

Tác dụng dược lý – Công dụng

Vị nhạt hơi cay, tính mát, có tác dụng thư can, giải nất, thanh nhiệt, trừ thấp, lợi tiểu, tiêu sừng, bạt độc. Lá có mùi rất hôi, có tác dụng giảm co thắt. Rễ rất đắng và se.
Công dụng: Ở Trung quốc, cây được dùng làm thuốc chữa: viêm gan cấp và mạn, phong thấp, ung thủng, rắn cắn. Ngoài ra có nơi dùng chữa: cảm lạnh, ho, đau răng, viêm hạch nhân cấp, viêm họng, viêm ruột, lỵ, trẻ em suy dinh dưỡng, huyết áp cao, đau đầu, thấp khớp, đau nhức xương.

(phần dược liệu lấy nguồn từ uphcm.edu.vn)

Ghi chú

  1. ^ D’Cruz, Mark. “Ma-Ke Bonsai Care Guide for Serissa foetida”. Ma-Ke Bonsai. Retrieved 2011-05-09.
  2. ^ D’Cruz, Mark. “Ma-Ke Bonsai Care Guide for Serissa foetida Var. Mount Fuji”. Ma-Ke Bonsai. Retrieved 2011-05-09.

Tham khảo

Một số hình ảnh khác